NHỮNG NHÀ SÁNG CHẾ THUỐC VÀ VACCINE ĐẦU TIÊN

19:35 Unknown 0 Comments


Trong lĩnh vực Y khoa có rất nhiều các nhà khoa học đã thực hiện những sáng chế quan trọng. Có thể kể ra một vài trường hợp như Louis Pasteur, Flemming, Edward Jenner.

Louis Pasteur phát minh ra vaccine chống bệnh Dại hay chứng sợ nước do chó cắn. Chứng sợ nước là do bệnh nhân bị chó dại cắn sau một thời gian khoảng 2 tuần đến 2 tháng thì phát bệnh. Người bệnh lúc đó cực kỳ sợ hãi khi phải tiếp xúc với nước và sự sợ hãi này ngày càng tăng hơn nữa. Khi bênh đến gia đoạn muộn, người bệnh có biểu hiện như chó dại, sùi bọt mép, tru tréo, giãy giụa và cuối cùng là tử vong mà hiện nay chưa có phương thức nào có thể chữa trị được.

Bệnh được gây bởi một loại virut có trong nước bọt của chó dại, khi chó dại cắn người virut từ nước bọt sẽ thâm nhập tại vết cắn và từ đó lan tràn khắp cơ thể. Pasteur đã khám phá ra rằng nếu được tiêm một liều dại nhẹ, cơ thể sau đó sẽ không bị ảnh hưởng gì khi chó cắn. Pasteur đã thử nghiệm Vaccine này trên một đứa bé bị chó dại cắn, sau 14 ngày bị sốt, đứa bé hoàn toàn không có dấu hiệu của bệnh dại. Ngày nay tất cả những nước trên thế giới đều có Vaccine phòng dại, tuy là căn bệnh chưa có thuốc điều trị nhưng nhờ vào đóng góp lớn lao của Louis Pasteur mà số người chết do bị chó dại cắn đã giảm đi rất nhiều.


Eward Jenner là cha đẻ của Vaccine chống bệnh Đậu mùa. Vào thời của ông hàng ngàn người tại nước Anh đã trở thành nạn nhân của căn bệnh này. Nhiều người tử vong, một số khác thì qua khỏi nhưng cũng mang nhiều di chứng nặng nề như mù loà. Ngày nay thì bênh Đậu mùa đã được thanh toán tận gốc trên toàn thế giới. Để có được kỳ tích này là nhờ vào công lao sáng chế ra Vacccine chống bênh đậu mùa của Jenner. Đậu mùa là bệnh do một loại virut lây lan trong không khí nên rất dễ lây và rất khó khăn trong công tác kiểm soát dịch. Cách tốt nhất có thể làm là phòng bệnh xảy ra bằng cách xây dựng một hệ thống miễn dịch giúp miễn nhiễm với căn bệnh này.


BỆNH NHÂN ĐẬU MÙA


BỆNH ĐẬU MÙA


Jenner đã qua sát những người nuôi bò khi tiếp xúc với  bò mắc bệnh đậu bò, thì sẽ bị mắc bệnh, bệnh này thì nhẹ khi mắc ở người và hoàn toàn tự khỏi. Điều đặc biệt đáng lưu ý là những người khỏi bệnh sau khi mắc bệnh đậu bò thì khi tiếp xúc với người bị bệnh đậu mùa sẽ không bị lây bệnh nữa và nếu có thì bệnh cũng giảm nhẹ đi rất nhiều. Nhờ đó ông đã đưa ra kết luận mắc bệnh đậu bò có tác dụng làm giảm độc tính của bênh đậu mùa. Ông đã lấy huyết tương của những con bò bị bệnh tiêm cho người khoẻ mạnh. Những người nay sau đó không hề bị mắc bệnh khi có những trận dịch đạu mùa xảy ra. Từ đó việc chế tạo Vaccine theo cách của ông dùng để tiềm cho người đã được phổ biến rộng rãi và liên tục được cải tiến và hoàn thiện hơn. Và sau hơn 100 năm kể từ ngày Jenner phát minh ra Vaccin phòng bệnh, nhân loại đã hoàn toàn loại trừ được bệnh đậu mùa. Năm 1979 tôt chức y tế WHO đã tuyên bố bệnh đậu mùa đã được thanh toán thành công trên toàn thế giới. Ngày nay thì không còn một người nào trên thế giới bị mắc bệnh đậu mùa nữa, công lao của Eward Jenner đối với nhân loại thật vô cùng to lớn.  

Không có loại thuốc nào lại có tốc độ phát triển và tiến bộ nhanh như thuốc Kháng Sinh. Nói đến kháng sinh phải kể đến ông tổ của mọi loại kháng sinh hiện nay là Penicllin. Nó đã mở ra một thế giới mới cho ngành y khoa nói chung và các bệnh truyền nhiễm nói riêng. Penicllin đã trở thành loại thuốc không thể thiếu ở bất kì bệnh viện nào trên thế giới. Alexader Fleming đã nhận thấy một loại nấm có tác dụng diệt các loại vi khuẩn cực kì công hiệu. Tên của loại nấm đó là Penicillinium. Nhưng sáng chế của ông chưa được công bố rộng rãi. Mãi sau gần mười năm, khi thế chiến thứ 2 lan rộng thì nhu cầu về thuốc chữa bệnh giúp chống lại các vi khuẩn gây nhiễm trùng vết thương thực sự trở nên bức thiết hơn bao hết. Penicillin nhanh chóng được phổ biến và trở thành một tượng đài của nền công nghiệp kháng sinh sau này. Năm 1940, Florey và Chani đã thử thuốc này lên người bênh giang mai và vài loại bệnh tương tự khác. Họ cảm thấy thuốc có kết quả tốt. Từ đó Penicillin có thể dùng để chế ngự và điều trị triệt để nhiều loại bệnh nhiễm trùng. Vào thời kì đầu rất khó để sản xuất và bảo quản penicillin vì thường cần phải giữ lạnh. Ngày nay với những tiến bộ và nhiều cải tiến đã ra đời, chúng ta có thể sản xuất Penicillin một cách dễ dàng với giá thành rẻ, việc bảo quả cũng trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Hoàn toàn không cường điệu khi nói rằng Penicillin đã mở ra một kỉ nguyên tươi sáng mới cho y học. Để vinh danh cho phát minh vĩ đại của ông, Flemming và các cộng sự đã được trao giải Nobel y học vào năm 1945.

0 nhận xét: